DMVN – Nửa năm biến động và ứng phó mới


Khi công nghệ đã phát triển ở mức rất cao, thì những biến động trong thị trường dệt may thế giới vô cùng khó lường. Cộng thêm tác động mạnh và trực tiếp của cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung khiến những ông lớn dệt may thế giới lao đao. Câu chuyện ứng phó đã nóng hơn bao giờ hết đối với các nhà sản xuất, xuất khẩu DMVN.

Ông Cao Hữu Hiếu, Giám đốc điều hành Vinatex đã dành cho Tạp chí DM & TTVN những thông tin mới nhất về tình hình của Ngành trong nửa năm đầy biến động vừa qua, cũng như những ứng phó trong nửa năm 2019 còn lại.

– Ông có thể cho biết kết quả sản xuất kinh doanh của Ngành DMVN nói chung và Vinatex nói riêng trong 6 tháng đầu năm 2019?

– 6 tháng đầu năm 2019 kim ngạch xuất khẩu toàn Ngành dệt may Việt Nam (DMVN) ước đạt 18,1 tỷ USD, tăng 9,3 % so với cùng kỳ 2018. Trong đó xuất khẩu đi Mỹ ước đạt 7,22 tỷ USD, tăng 11,7%; Xuất khẩu sang EU đạt 2,56 tỷ USD, tăng 4,52%; Xuất khẩu Nhật Bản đạt 1,89 tỷ USD, tăng 5,20 %; Xuất đi Hàn Quốc đạt 1,63 tỷ USD, tăng 4,6 %; Và xuất khẩu tới Trung Quốc đạt 2 tỷ USD, tăng 10,3 %.

Riêng Vinatex có kim ngạch xuất khẩu đạt 1,32 tỷ USD (tăng nhẹ 0,7% so với cùng kỳ), đạt 44,5% so với kế hoạch.

Sở dĩ có được kết quả trên là nhờ DMVN đã tận dụng cơ hội từ việc cắt giảm thuế quan của các Hiệp định TMTD như CPTPP và EVFTA nhằm tăng xuất khẩu vào các thị trường dệt may phi truyền thống. Hiện tại Việt Nam còn nhiều cơ hội phát triển ở các thị trường mới như EU, Úc, Canada.

Tuy nhiên, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung vẫn tiếp tục căng thẳng và ngày càng leo thang gây khó khăn trở ngại cho cả chuỗi dệt may toàn cầu nói chung và dệt may Việt Nam nói riêng. Tình hình thị trường NPL thế giới như bông, xơ, sợi vải diễn ra nhiều kịch bản khó lường. Ngành sợi của VN bị ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ nhất khi có tỉ lệ tới hơn 70% xuất khẩu tới Trung Quốc.

Ngoài ra, vấn đề tỷ giá đồng NDT giảm mạnh cũng khiến các doanh nghiệp sợi rất “đau đầu” khi bị người mua ở TQ ép giá đòi chia sẻ mức lỗ.

– Với kết quả đó, Vinatex sẽ có điều chỉnh gì trong hoạt động để tạo nên kết quả tốt trong nửa năm còn lại? Và điểm trọng tâm của Vinatex trong 6 tháng cuối năm 2019?

– Giải pháp quan trọng nhất mà một doanh nghiệp trong ngành có thể thực hiện, đó là tự giác nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp như: cắt giảm chi phí đầu vào với tối ưu hóa, chuẩn hóa quy trình sản xuất, quy trình quản lý chuẩn theo thực trạng của doanh nghiệp. Chỉ khi quản lý sản xuất, quản lý con người chuẩn chỉ theo tinh thần cách mạng công nghiệp 4.0, hướng tới mục tiêu biến nhà máy sản xuất thông thường thành nhà máy sản xuất thông minh, không để lãng phí bất kỳ nguồn lực nào thì các doanh nghiệp mới có thể tồn tại được trong thị trường đầy biến động như hiện nay. Các bài toán về chi phí, bài toán thị trường, bài toán đầu tư cần phải được tính toán thật kỹ lưỡng, đo lường tất cả các kịch bản thị trường có thể xảy ra và cần có phương án cụ thể đối với từng kịch bản thị trường, tránh lúng túng hay đưa ra giải pháp đối phó mà cần nhìn vào các mục tiêu dài hơi hơn nữa.

Đặc biệt với các doanh nghiệp nhóm sợi hiện đang sản xuất khá cầm chừng, mục tiêu là giải quyết hết sợi tồn kho và tiêu thụ được lượng sợi đã và đang sản xuất.

Với các doanh nghiệp nhóm may, ở thời điểm hiện tại tâm lý của các nhà nhập khẩu tại các thị trường lớn là chờ đợi xem xét tình hình thị trường sẽ diễn biến ra sao, do vậy họ thường đặt lượng đơn hàng nhỏ lẻ, thậm chí rất nhỏ với số lượng ít, thời gian ngắn. Nếu ở giai đoạn trước kia thường các doanh nghiệp may lớn đã có các đơn hàng đến hết cuối năm thì nay nhiều doanh nghiệp may lớn mới có đơn hàng hết quý III/2019, còn các doanh nghiệp quy mô nhỏ thì gặp khá nhiều khó khăn về đơn hàng, chủ yếu sản xuất khá cầm chừng hoặc chấp nhận để trống chuyền.

Trước tình hình đó, hơn ai hết là cơ quan đầu ngành chúng tôi rất chú trọng đến công tác phổ biến kiến thức cho các doanh nghiệp hiểu rõ nguy cơ và thách thức từ các tác nhân gây biến động thị trường. Chúng tôi thường xuyên tổ chức các buổi Hội thảo chuyên đề và thành lập một nhóm chuyên nghiên cứu về các tác động của biến động thị trường đối với doanh nghiệp. Định hướng lâu dài là khuyến khích các doanh nghiệp trong tập đoàn thành lập các chuỗi liên kết từ NPL, sử dụng sản phẩm theo chuỗi hướng tới mục tiêu cùng nâng cao chất lượng cũng như giá thành sản phẩm bán ra. Định hướng xuất khẩu theo hướng FOB, ODM, không giới hạn ở gia công, cũng từ lâu là kim chỉ nam để doanh nghiệp hướng tới. Tuy nhiên Tập đoàn đóng vai trò chỉ đạo đối với các doanh nghiệp có tỷ lệ góp vốn nhiều, còn với doanh nghiệp có tỷ lệ góp vốn thấp chúng tôi chỉ đóng vai trò định hướng.

– Liệu cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung sẽ tiếp tục tác động lên dệt may Việt Nam nói chung và Vinatex nói riêng thế nào? Vinatex có chủ động ứng phó gì trong thời gian tới?

– Xuất khẩu các doanh nghiệp nhóm sợi phụ thuộc rất nhiều vào tình hình chiến tranh thương mại Mỹ – Trung. Nếu như sắp tới quan hệ Mỹ – Trung chuyển biến tốt, thị trường sợi mới được cải thiện và ấm trở lại. Trong trường hợp xảy ra kịch bản Mỹ áp nốt 300 tỷ còn lại lên cả hàng may mặc từ Trung Quốc thì bức tranh xuất khẩu của doanh nghiệp sợi và các đơn hàng của doanh nghiệp may còn bị chông chênh.

– Bên cạnh những thị trường truyền thống, Tập đoàn đã đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển thị trường mới ra sao? Đặc biệt, Hiệp định thương mại Việt Nam – EU (EVFTA) đã được ký vào ngày 30-6, vậy doanh nghiệp có kỳ vọng gì vào những tín hiệu mới? Ông có thể khái quát những thuận lợi, khó khăn mà Tập đoàn cũng như các doanh nghiệp khác phải đối diện?

– Bên cạnh công tác phổ biến kiến thức, việc mở rộng thị trường mới nhằm ngăn ngừa rủi ro từ việc biến động của các thị trường truyền thống cũng được đặc biệt chú trọng. Từ hai năm trở lại đây Tập đoàn đã tổ chức các đoàn khảo sát để khai thác các thị trường mới tiềm năng như thị trường Canada. Kết quả bước đầu rất khả quan và sắp tới nhiều nhà nhập khẩu lớn của Canada sẽ tổ chức các đoàn sang Việt Nam để trực tiếp tham quan các nhà máy và đặt hàng thử nghiệm.

Hiện tại Tập đoàn đang nghiên cứu triển khai tiếp các công tác xúc tiến sang các thị trường mới như Úc và EU, nhằm tận dụng tối đa các cơ hội mà Hiệp định TMTD mang lại.

Riêng đối với Hiệp định EVFTA, chúng tôi rất kỳ vọng hiệp định này sẽ mở ra cho Việt Nam những cơ hội mới vì hiện tại thị phần của Việt Nam tại EU còn thấp: ở quanh mức 2%. Xu hướng nhập khẩu EU trong 6 tháng gần đây (tính đến hết quý I/2019) cho thấy Trung Quốc cũng đang mất thị phần tại thị trường này. Bangladesh là nước được hưởng phần ưu đãi về thuế quan với EU do đó Bangladesh đang là quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất khi TQ mất thị phần tại EU. Thời gian chờ để Hiệp định EVFTA thực sự có hiệu lực là tới năm 2020 vì Hiệp định vẫn cần phải được tất cả các nước thành viên EU thông qua lần cuối. Tuy nhiên, tôi kỳ vọng EVFTA sẽ mang tới các cơ hội tốt cho DMVN bởi quy tắc xuất xứ để dệt may Việt Nam được hưởng thuế suất ưu đãi trong hiệp định EVFTA là quy tắc dễ đáp ứng hơn so tương quan với Hiệp định CPTPP, đó là quy tắc từ vải trở đi, còn được cộng gộp NPL nhập từ Hàn Quốc.

Tuy nhiên, với EVFTA không phải không có khó khăn cho DMVN. Theo đánh giá EU không phải là một thị trường dễ tiếp cận vì có nhiều nước thành viên, đơn hàng có số lượng tương đối nhỏ nếu so với đơn hàng đi Mỹ, thời gian thay đổi mẫu mã tương đối dầy, khách hàng lại khá kỹ và khó trong các khâu quản lý chất lượng, an toàn sản phẩm. Tuy nhiên EU lại có lợi thế là đơn giá nhập khẩu trung bình khá tốt, do đó tôi tin tưởng trong tương lai với thêm lợi thế từ việc cắt giảm thuế, các doanh nghiệp của VN sẽ mạnh dạn hơn trong công tác xúc tiến, khai thác thêm thị trường EU.

– Xin cảm ơn ông!

Đón đọc Tạp chí Dệt May và Thời trang Việt Nam (VTGF) số tháng 7/2019 tại đây!

Theo VTGF


Các tin khác