Xu hướng Mỹ tìm nguồn cung ứng dệt may trong năm 2024


Năm 2023 là một năm đầy thách thức đối với kinh tế thế giới nói chung và với Việt Nam nói riêng. Những biến động phức tạp của môi trường kinh tế, địa chính trị toàn cầu đã gây ra nhiều thách thức đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có ngành dệt may. Trong số các thị trường xuất khẩu dệt may lớn, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Bài viết dưới đây sẽ phân tích cụ thể diễn biến nhập khẩu hàng may mặc của thị trường Mỹ trong năm 2023, những xu hướng tìm nguồn cung ứng quan trọng trong ngành may mặc cần theo dõi trong năm 2024, giúp gợi mở những hướng đi mới cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam.

Nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ năm 2023

Bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế vĩ mô, lượng nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ trong năm 2023 chịu sự sụt giảm đáng kể nhất kể từ sau đại dịch. Cụ thể, nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ năm 2023 giảm 22% về số lượng và giá trị so với năm 2022, không có nhà cung cấp nào trong số 10 nhà cung cấp hàng đầu có mức tăng trưởng dương.

Tuy nhiên, sau nhiều tháng giảm liên tiếp, nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ cuối cùng đã phục hồi trở lại vào tháng 12/2023. Nhờ kỳ nghỉ lễ và sự cải thiện dần dần của nền kinh tế Mỹ, nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ được điều chỉnh theo mùa trong tháng 12/2023 tăng khoảng 4,5% về số lượng và 4,2% % giá trị so với tháng trước, thể hiện xu hướng phục hồi. Chỉ số niềm tin người tiêu dùng Hoa Kỳ (CCI) đã tăng từ 67,2 trong tháng 11 lên 76,4 trong tháng 12 (tháng 1 năm 2019=100), cho thấy các hộ gia đình Hoa Kỳ đã tự tin hơn về triển vọng tài chính của mình và sẵn sàng chi tiêu. Tuy nhiên, dự báo mới nhất của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tháng 1 năm 2024 vẫn dự đoán tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ sẽ chậm lại từ 2,5% năm 2023 xuống 2,1% vào năm 2024. Như vậy, liệu lượng nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ có thể tiếp tục duy trì tăng trưởng sau đại dịch hay không hay kỳ nghỉ lễ chỉ là tạo cú hích tăng trưởng ngắn? Đây vẫn còn là một dấu hỏi lớn.

Trong khi tốc độ tăng chi phí tìm nguồn cung ứng đã chậm lại thì chi phí và áp lực tài chính mà các công ty thời trang Mỹ phải đối mặt vẫn hiện hữu. Cụ thể, tính đến tháng 12/2023, chỉ số giá nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ đứng ở mức 106 (tháng 1/2019=100), hầu như không thay đổi so với tháng 1/2023.

Tuy nhiên, có hai xu hướng mới nổi rất đáng theo dõi. Một là chỉ số giá bán lẻ hàng may mặc của Mỹ giảm đáng kể từ tháng 8 năm 2023, đồng nghĩa với việc các công ty thời trang Mỹ có thể phải hy sinh lợi nhuận để thu hút người tiêu dùng đến cửa hàng.

Chỉ số giá Container 40ft từ đầu năm tới nay, theo Drewry

Xu hướng thứ hai là chi phí vận chuyển tăng cao do cuộc khủng hoảng vận tải Biển Đỏ gần đây. Theo J.P. Morgan, trong tuần ngày 25/1/2024, giá cước vận chuyển container từ Trung Quốc đến Bờ Tây và Bờ Đông Hoa Kỳ đã chứng kiến mức tăng đột biến đáng kể lần lượt khoảng 140% và 120% kể từ tháng 11/ 2023. Đáng lo ngại hơn, không có dấu hiệu nào cho thấy cuộc khủng hoảng Biển Đỏ sẽ sớm được giải quyết. Do đó, năm 2024 có thể đặt ra thêm một năm thách thức tài chính cho nhiều công ty thời trang Mỹ cũng như các nhà cung cấp hàng cho Mỹ.

Việc đa dạng hóa sourcing vẫn là xu hướng then chốt trong chiến lược tìm nguồn cung ứng của các công ty thời trang Hoa Kỳ vào năm 2023. Ví dụ: chỉ số Herfindahl–Hirschman (HHI), một thước đo thường được sử dụng để đo mức độ tập trung thị trường, đã giảm từ 0,105 năm 2022 xuống 0,101 vào năm 2023, cho thấy rằng nhập khẩu hàng may mặc của Hoa Kỳ đến từ nhiều nguồn đa dạng hơn.

Đáng chú ý, xét về giá trị, chỉ 71,6% lượng hàng may mặc nhập khẩu của Mỹ đến từ châu Á vào năm 2023, mức thấp nhất trong 5 năm. Điều này rất nhất quán với kết quả Khảo sát điểm chuẩn của OTEXA. Dữ liệu của OTEXA phản ánh ý định đa dạng hóa nguồn cung ứng từ châu Á của các công ty Mỹ do lo ngại địa chính trị ngày càng tăng, đặc biệt là sự cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung ngày càng gia tăng.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, thị phần giảm sút của châu Á không mang lại nhiều lợi ích “near-shoring” cho khối Tây bán cầu (Western Hemisphere) gần với Mỹ về vị trí địa lý. Ví dụ: vào năm 2023, khoảng 14,6% hàng may mặc nhập khẩu của Hoa Kỳ có nguồn gốc từ các nhóm USMCA (khu vực Bắc Mỹ) và CAFTA-DR (khu vực Trung Mỹ), gần bằng mức 14,3% được ghi nhận vào năm 2022. Thay vào đó, nhập khẩu hàng may mặc của Hoa Kỳ bên ngoài châu Á và Tây bán cầu đã tăng lên 11,4% vào năm 2023 từ mức 9,8% một năm trước. Một số nhà cung cấp mới nổi từ EU và châu Phi, như Thổ Nhĩ Kỳ, Romania, Maroc và Tunisia, hoạt động tương đối tốt tại thị trường Mỹ vào năm 2023, mặc dù thị phần của họ vẫn còn nhỏ. Với điều này, rất có thể chiến lược đa dạng hóa nguồn cung ứng sẽ tiếp tục vào năm 2024 vì nhiều công ty coi chiến lược này là hiệu quả nhất để giảm thiểu những bất ổn khác nhau của thị trường và rủi ro tìm nguồn cung ứng.

Các công ty thời trang Mỹ tiếp tục xu hướng giảm đặt hàng với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc sẽ vẫn là nhân tố chủ chốt trong cuộc chơi. Một mặt, khoảng 20% giá trị nhập khẩu hàng may mặc của Hoa Kỳ và 25,9% về số lượng đến từ Trung Quốc vào năm 2023, cả hai đều đạt mức thấp mới trong thập kỷ qua. Các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng việc Trung Quốc không còn là nguồn nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất của nhiều công ty thời trang Mỹ ngày càng trở nên phổ biến.

Xu hướng tìm nguồn cung ứng quan trọng trong năm 2024

Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có tính cạnh tranh cao về sự đa dạng của sản phẩm mà nước này cung cấp. Ví dụ, chỉ số đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, được tính toán dựa trên dữ liệu thương mại ở cấp mã HTS 6 chữ số (Chương 61 và 62), cho thấy rất ít quốc gia khác có thể sánh ngang với sự đa dạng về sản phẩm của Trung Quốc. Tương tự, dữ liệu cấp độ sản phẩm được thu thập từ các nguồn trong ngành chỉ ra rằng Trung Quốc cung cấp nhiều kiểu quần áo hơn (được đo bằng tỷ lệ lưu kho) so với các đối thủ cạnh tranh vào năm 2023. Theo kết quả, thay vì xác định các nhà cung cấp giống Trung Quốc, các công ty thời trang Mỹ dường như tận dụng đa dạng hóa nguồn hàng hơn – ví dụ, sử dụng Việt Nam làm cơ sở tìm nguồn cung ứng áo khoác ngoài, đồ lót và đồ bơi; Ấn Độ về váy và Bangladesh về các mặt hàng dệt kim cơ bản với số lượng lớn.

Liên quan đến vấn đề này, một nghiên cứu khác gần đây cho thấy năm nhà cung cấp hàng đầu châu Á bên cạnh Trung Quốc, bao gồm Việt Nam, Bangladesh, Indonesia, Ấn Độ và Campuchia, có thể cung cấp các danh mục sản phẩm đa dạng gần tương đương với các sản phẩm từ Trung Quốc tại thị trường Mỹ.

Dữ liệu thương mại từ OTEXA cho thấy, những dấu hiệu ban đầu các công ty thời trang Mỹ đang giảm dần nguồn cung sản phẩm may mặc bằng cotton từ châu Á do thực thi Đạo luật phòng chống lao động cưỡng bức người Duy Ngô Nhĩ (UFLPA). Đáng chú ý, khi mối lo ngại về bông do lao động cưỡng bức Tân Cương sản xuất lần đầu xuất hiện vào năm 2018, các công ty thời trang Mỹ đã nhanh chóng chuyển đơn đặt hàng tìm nguồn cung ứng quần áo cotton từ Trung Quốc sang các nước châu Á khác. Tuy nhiên, việc thực thi của UFLPA ngày càng nhắm vào hàng nhập khẩu từ các nước châu Á ngoài Trung Quốc do chuỗi cung ứng dệt may khu vực có tính tích hợp cao và sự phụ thuộc nặng nề của các nước châu Á vào đầu vào dệt may từ Trung Quốc. Do đó, châu Á (không bao gồm Trung Quốc) giảm tỷ trọng trong tổng nhập khẩu hàng may mặc bằng vải cotton của Hoa Kỳ vào năm 2023.

Trong khi đó, bị ảnh hưởng bởi lệnh thực thi của UFLPA, chỉ 11,8% hàng may mặc cotton nhập khẩu của Hoa Kỳ đến từ Trung Quốc vào năm 2023, đánh dấu mức giảm tiếp theo từ mức 13% vào năm 2022 và đạt mức thấp mới trong thập kỷ qua. Trung Quốc cũng chủ động giảm tỷ lệ hàng may mặc bằng vải bông trong tổng xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ, giảm từ gần 40% năm 2017 xuống chỉ còn 25% vào năm 2023. Trong khi đó, hàng may mặc bằng vải cotton luôn chiếm khoảng 45% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ trong suốt thời kỳ đó.

Ngoài ra, mặc dù khối lượng nhập khẩu hàng may mặc của Hoa Kỳ từ khối CAFTA-DR không tăng đáng kể, nhưng việc tận dụng hiệp định thương mại đã được cải thiện. Vào năm 2023, khoảng 19,2% hàng may mặc nhập khẩu của Hoa Kỳ yêu cầu hưởng quyền lợi miễn thuế theo các hiệp định thương mại tự do và các chương trình ưu đãi thương mại của Hoa Kỳ, mức tăng đáng chú ý so với 17,7% vào năm 2022. Hầu hết hàng nhập khẩu như vậy đều thuộc về khối CAFTA-DR (45,4%) và khối USMCA (19,7%).

Trong khi đó, trong năm 2023 (dữ liệu OTEXA mới nhất), khoảng 70,2% hàng may mặc nhập khẩu của Hoa Kỳ đến từ các thành viên CAFTA-DR được hưởng lợi ích miễn thuế, tăng từ mức 66,6% cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, 65,4% hàng may mặc nhập khẩu của Hoa Kỳ theo CAFTA-DR tuân thủ quy tắc xuất xứ từ sợi trở đi vào năm 2023, tăng đáng kể so với 61,3% vào năm 2022. Có 2,6% hàng nhập khẩu khác sử dụng cơ chế cung ứng thiếu hụt của hiệp định, cũng tăng từ 2,3% vào năm 2022. Kết quả có thể phản ánh chuỗi cung ứng dệt may khu vực ngày càng tích hợp hơn giữa các thành viên CAFTA-DR do đầu tư vào khu vực ngày càng tăng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc cần phải làm để tăng hiệu quả khối lượng nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ từ khu vực này.

Một số chỉ dấu cho doanh nghiệp Việt Nam

Dự báo năm 2024, diễn biến thị trường vẫn tiềm ẩn nhiều biến số, để có thể ứng phó cũng như thích nghi với những biến động khó lường sắp tới, doanh nghiệp cần chủ động:

Đa dạng hóa trong sản phẩm xuất khẩu: Việc đa dạng hóa mặt hàng trong dệt may sẽ làm tăng lợi thế cạnh tranh, chiếm được thị phần trong bối cảnh kinh tế bất định. Ngoài ra, việc đa dạng hóa mặt hàng sẽ là đòn bẩy để có thể khai phá nhiều thị trường tiềm năng mới.

Tích cực tìm kiếm các thị trường tiềm năng mới: Việc tìm kiếm, khai phá các thị trường tiềm năng mới không chỉ giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường mà còn gia tăng năng lực cạnh tranh thị trường, giảm thiểu sự lệ thuộc vào những thị trường truyền thống, tích cực tìm kiếm các thị trường ngách, chủ động trong mọi tình huống khi doanh nghiệp gặp khó.

Bám sát diễn biến thị trường: Việc bám sát diễn biến thị trường đã, đang và sẽ luôn là yếu tố tiên quyết của các doanh nghiệp trong việc phát triển thương mại giữa các doanh nghiệp và nhà nhập khẩu. Doanh nghiệp cần theo dõi sát sao giá nguyên liệu đầu vào, ví dụ như giá bông, xơ sợi, nguyên phụ liệu để chọn thời điểm hợp lý giúp tối ưu hóa chi phí cho doanh nghiệp.

Tận dụng tốt các FTA và việc nâng cấp quan hệ ngoại giao lên mức cao nhất là đối tác chiến lược toàn diện với các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc: Để có thể tận dụng tốt các FTA và mối quan hệ chiến lược nói trên, doanh nghiệp dệt may Việt Nam nên chú trọng vào việc bám sát yêu cầu của hải quan các nước nhập khẩu, nhà mua hàng, tích cực minh bạch hóa các khâu trong dây chuyền sản xuất, cân nhắc chuyển đổi xanh, sản xuất theo nhu cầu thực tế của thị trường, tận dụng tốt các FTA để có thể nâng cao thị phần của Việt Nam và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Bài: Nguyễn Trọng Nghĩa


Các tin khác