Để chính sách tín dụng đồng hành cùng doanh nghiệp


Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến hết năm 2023, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 13,71% so với năm 2022; Trong đó, dư nợ trong ngành nông, lâm, thủy sản tăng 6,95%, ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,29%, ngành thương mại và dịch vụ tăng 15,83%. Tuy nhiên, cuối tháng 1/2024, tín dụng toàn hệ thống giảm 0,6% và cuối tháng 2/2024 tiếp tục giảm giảm 0,72% so với cuối năm 2023. Tính chung, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống quý 1/2024 là 0,26%.

Thông điệp từ nghịch lý tín dụng tăng trưởng thấp

NHNN cho biết, mức giảm hiện nay ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế. Có 2 lĩnh vực tăng trưởng trong 2 tháng đầu năm, đó là tín dụng lĩnh vực bất động sản (BĐS), tăng 0,23% so với cuối năm 2023; tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán, tăng 2,56% so với cuối năm 2023.

Về tổng thể, đang tồn tại nghịch lý: Lượng tiền gửi còn rất lớn, khoảng 14 triệu tỷ đồng, với lãi suất huy động giảm “kịch sàn”… ; trong khi doanh nghiệp khó tiếp cận vốn và chi phí lãi vay còn cao; tức tiền nhiều nhưng vốn không thể ra nền kinh tế. Các ngân hàng đang lúng túng về làm thế nào để tăng cung ứng vốn tín dụng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho sản xuất kinh doanh và hài hoà lợi ích các bên liên quan.

Nghịch lý này là hệ luỵ tổng hợp từ một loạt nguyên nhân:

Thứ nhất, cầu và sức hấp thụ vốn của nền kinh tế ở mức thấp. Nhiều doanh nghiệp thu hẹp hoặc ngừng hoạt động, không có nhu cầu vay vốn do sức ép lạm phát, giá cả nhiều yếu tố đầu vào, chi phí sản xuất kinh doanh cao; khó tiêu thụ hoặc thiếu đơn hàng; người dân tăng dự phòng và giảm vay chi tiêu…

Thứ hai, khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa do hạn chế về vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính, quản trị điều hành; Thiếu phương án kinh doanh khả thi, khả năng liên kết với chuỗi sản xuất còn hạn chế; Thông tin về tình hình tài chính thiếu minh bạch, sử dụng vốn vay sai mục đích; độ rủi ro của khách hàng bị đánh giá cao hơn, doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến khả năng thẩm định của tổ chức tín dụng, để tổ chức tín dụng quyết định cho vay. Việc triển khai các giải pháp tăng tiếp cận tín dụng thông qua các cơ chế hỗ trợ của nhà nước (Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa,  Quỹ Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa…) chưa phát huy hiệu quả…

Thứ ba, nguồn vốn phục vụ tăng trưởng tiếp tục tập trung vào tín dụng ngân hàng, tỷ lệ tín dụng/GDP tăng cao (cuối năm 2023 khoảng 133%, tăng so với mức khoảng 125% cuối năm 2022), tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ.

Đồng thời, khả năng huy động vốn trung, dài hạn của tổ chức tín dụng còn thấp so với nhu cầu vốn trung dài hạn của nền kinh tế. Nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm đến 80% tổng nguồn vốn trong khi dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm đến 50% tổng dư nợ cho vay. Ngoài ra, nợ xấu có xu hướng tăng, công tác xử lý nợ xấu còn khó khăn nên một số ngân hàng còn thận trọng trong thực hiện cấp tín dụng. Một số khoản nợ cũ lãi suất cao chậm được điều chỉnh giảm để hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân vay vốn; Quy trình thủ tục cho vay vẫn chậm được cải tiến, nhất là thời gian xét duyệt cho vay còn dài, định giá và quyết định tài sản thế chấp còn quá thận trọng.

Bên cạnh đó, việc thực hiện cơ chế tài sản bảo đảm còn thiếu linh hoạt, chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp, nhất là trong điều kiện thị trường BĐS đang trầm lắng. Thiếu sự kết nối, tương tác, chia sẻ, hợp tác của khách hàng và ngân hàng trong việc trực tiếp trao đổi tìm biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn.

Đặc biệt, các doanh nghiệp vẫn chịu chi phí vốn vay cao. Đến ngày 29/2/2024, lãi suất bình quân huy động và cho vay đối với các giao dịch phát sinh mới lần lượt ở mức 3,3%/năm và 6,4%/năm, giảm khoảng 0,2%/năm và 0,7%/năm so với cuối năm 2023. Hiện nay, sự chênh lệch lãi suất giữa các khoản vay của ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương mại nhà nước khá lớn (từ 4-5%), doanh nghiệp mong muốn có sự thu hẹp khoảng cách này và nếu được thì các chi phí vay vốn giảm hơn nữa để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi.

Theo NHNN, trong tháng 3/2024, lãi suất tiền gửi bình quân của các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại ở mức 3,3%/năm, giảm 0,2%/năm so với cuối năm 2023. Trong khi đó, lãi suất cho vay bình quân của các khoản vay mới ở mức 6,4%/năm, giảm 0,7%/năm.

Tổng hợp kết quả công khai lãi suất cho vay trong hệ thống cho thấy, trong tháng 4/2024, lãi suất cho vay ngân hàng Big 4 từ 4%/năm; Trong đó, VietinBank công bố lãi suất cho vay bình quân là 6,3%/năm. Chênh lệch lãi suất cho vay và huy động bình quân là 2,45%/năm. Lãi suất cho vay bình quân được Agribank công bố là 7,47%/năm, chênh lệch lãi suất giữa huy động và cho vay là 1,47%/năm. Mức lãi suất không thay đổi so với tháng 3/2024. Đầu tháng 3/2024, BIDV có lãi suất cho vay bình quân là 6,49%/năm. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân với lãi suất huy động vốn bình quân là 3,12%/năm. Vietcombank có lãi suất cho vay bình quân là 6,4%/năm. Chênh lệch lãi suất tiền gửi với cho vay bình quân 3,4%/năm và chênh lệch lãi suất sau khi trừ các chi phí liên quan hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn là 1,8%/năm….

Thực tế cũng ghi nhận, lãi suất huy động đang có dấu hiệu tăng trở lại, với chỉ riêng trong tháng 4/2024, có 15 ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất huy động. Tuy nhiên, lãi suất huy động hiện vẫn thấp hơn đáng kể so với hồi đầu năm 2024.

NHNN định hướng mức tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2024 khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Hiện cơ quan này đã giao hết toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2024 cho các ngân hàng, tổ chức hội nghị trực tuyến toàn ngành về đẩy mạnh tín dụng ngân hàng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2024.

Với thanh khoản dồi dào và còn rất nhiều dư địa tăng trưởng tín dụng, các tổ chức tín dụng hiện có điều kiện thuận lợi để cung ứng vốn cho vay ra nền kinh tế.

Vụ Dự báo, thống kê (Ngân hàng Nhà nước) vừa công bố điều tra xu hướng kinh doanh quý 2/2024 đối với các tổ chức tín dụng, tỷ lệ trả lời đạt 96%. Theo đó, các tổ chức tín dụng dự báo mặt bằng lãi suất huy động – cho vay trong quý 2/2024 và năm 2024 tiếp tục ở mức thấp và thay đổi không đáng kể so với kỳ trước. Mặt bằng rủi ro tổng thể của các nhóm khách hàng được các tổ chức tín dụng dự báo “tăng” trong năm 2024 (trái với kỳ vọng về mặt bằng rủi ro “giảm” tại kỳ điều tra trước), nhưng xu hướng tăng chậm lại so với năm 2023.  Các tổ chức tín dụng dự báo huy động vốn toàn hệ thống tăng 3,5% trong quý 2/2024 và tăng 9,9% trong năm 2024. Dư nợ tín dụng toàn hệ thống tăng bình quân 3,8% trong quý 2/2024 và tăng 13,6% trong năm 2024. Mức độ rủi ro tổng thể trong năm 2025 sẽ giảm nhẹ so với 2024. Cụ thể: 32,1% tổ chức tín dụng kỳ vọng “giảm”; 48,1% tổ chức tín dụng quan ngại rủi ro “tăng”; 19,8% tổ chức tín dụng dự báo “ổn định”. Huy động vốn toàn hệ thống tổ chức tín dụng được kỳ vọng tăng bình quân 3,5% trong quý 2/2024 và tăng 9,9% trong năm 2024, thấp hơn mức kỳ vọng 12% ghi nhận tại kỳ điều tra trước. Dư nợ tín dụng toàn hệ thống tổ chức tín dụng được kỳ vọng tăng bình quân 3,8% trong quý 2/2024 và tăng 13,6% trong năm 2024, điều chỉnh giảm 0,6 điểm % so với mức dự báo 14,2% tại kỳ điều tra trước.

Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2024 tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô,  Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Bài toán đặt ra cho Ngân hàng Nhà nước là điều hành chính sách tiền tệ để bảo đảm vừa thúc đẩy tăng trưởng, vừa kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm các cân đối lớn… Các giải pháp về lãi suất, thủ tục, hồ sơ vay vốn, tài sản bảo đảm, các biện pháp về bảo lãnh, các biện pháp về truyền thông, công nghệ, đặc biệt là lãi suất, cần tạo thuận lợi mở rộng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân; ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng (khoảng 6 – 6,5%) và giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Các giải pháp thích ứng cần có

Năm 2024 là năm tăng tốc, bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch 5 năm 2021 – 2025. Trong bối cảnh dự báo tình hình kinh tế thế giới còn rất nhiều khó khăn, để tạo thuận lợi, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, một mặt, Chính phủ cho phép ngân hàng có vốn nhà nước tăng vốn điều lệ để tăng khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế (tính đến cuối tháng 12/2023, tổng vốn điều lệ của toàn hệ thống các TCTD đạt gần 1,003 triệu tỷ đồng, tăng 14,36% so với cuối năm 2022. Trong đó, vốn điều lệ của nhóm NHTM Cổ phần là 542.566 tỷ đồng, tăng 15,58% và chiếm hơn nửa tổng vốn điều lệ toàn hệ thống. Nhóm các NHTM Nhà nước có tổng vốn điều lệ đạt 217.882 tỷ đồng, tăng 14,41%. Trong năm 2023, NHNN đã có văn bản chấp thuận tăng vốn điều lệ đối với 21 ngân hàng thương mại cổ phần, chủ yếu là từ nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng (lợi nhuận để lại và các quỹ dự trữ).

Đồng thời, nâng cao hiệu quả hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để tăng khả năng tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp.

Mặt khác, NHNN cần sớm sửa đổi, bổ sung các quy định, điều hành theo hướng giảm lãi suất, khuyến khích các nhà băng giảm chi phí và công bố công khai lãi suất cho vay bình quân. Các bộ ngành, địa phương có giải pháp tăng khả năng tiếp cận tín dụng với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng cần tái cấu trúc, minh bạch tình hình tài chính.

Theo dõi sát tình hình thế giới, trong nước để dự báo và điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, nhất là điều hành hài hòa, hợp lý giữa lãi suất và tỷ giá. Điều hành tăng trưởng tín dụng hiệu quả gắn với ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống tổ chức tín dụng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát chặt chẽ việc cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng; Kịp thời rà soát, xây dựng, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 để triển khai thực hiện đồng bộ từ ngày 01/7/2024 khi Luật các Tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành.

Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các tổ chức tín dụng:

* Triển khai tích cực các giải pháp tăng trưởng tín dụng, hướng tín dụng vào sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn, hiệu quả và kiểm soát rủi ro thanh khoản.

*  Tiếp tục tiết giảm chi phí, phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay ở mức hợp lý; thực hiện nghiêm túc việc công bố công khai, minh bạch lãi suất cho vay bình quân để doanh nghiệp, người dân thuận lợi trong việc lựa chọn ngân hàng cho vay có lãi suất thấp, phù hợp yêu cầu sử dụng vốn tín dụng.

* Tăng cường cho vay phục vụ đời sống, tiêu dùng, đẩy mạnh triển khai cho vay qua các hình thức điện tử, trực tuyến. Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ tín dụng ngân hàng phù hợp từng phân đoạn khách hàng và thị trường, loại hình, nhu cầu sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã, nhất là các nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp phục vụ đời sống, tiêu dùng của người dân.

* Tích cực, chủ động triển khai có hiệu quả, thiết thực chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp bằng các hình thức phù hợp.

* Tiếp tục triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023, đảm bảo kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp và người vay vốn gặp khó khăn, đồng thời không để trục lợi, làm sai quy định và sai lệch bản chất, nợ xấu.

*Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của các tổ chức tín dụng nhà nước; tăng cường trách nhiệm xã hội, đạo đức kinh doanh của tổ chức tín dụng trong việc chia sẻ, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp theo quan điểm “Lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”.

Bên cạnh đó, NHNN phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính tiếp tục điều hành chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, phối hợp đồng bộ, hài hòa, linh hoạt, chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Khẩn trương rà soát, hoàn thiện các quy định liên quan đến chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn trung, dài hạn hiệu quả của doanh nghiệp. Phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung triển khai các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; triển khai Đề án xây dựng 01 triệu căn nhà ở xã hội; triển khai quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2023 của Chính phủ; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy giải ngân gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng.

Đồng thời, khẩn trương thực hiện quyết liệt, hiệu quả, kịp thời các giải pháp tăng trưởng tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế cho người dân; chỉ đạo các tổ chức tín dụng hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế truyền thống như tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu và thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu, kinh tế tuần hoàn, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo…; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực rủi ro, đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả; tiếp tục có chính sách đột phá các gói tín dụng ưu đãi góp phần tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận tín dụng đối với doanh nghiệp, người dân. Khẩn trương rà soát toàn diện, phân tích, đánh giá kỹ lưỡng kết quả thực hiện hạn mức tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, từng ngành, từng lĩnh vực để theo thẩm quyền và quy định của pháp luật có biện pháp điều hành hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2024 hiệu quả, khả thi, kịp thời hơn nữa, tuyệt đối không để ách tắc, chậm trễ, không đúng thời điểm, bảo đảm thực hiện được các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đã đề ra trong năm 2024 và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; trường hợp có nội dung vượt thẩm quyền, kịp thời báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền theo quy định.

Bên cạnh đó, thường xuyên tổ chức các Hội nghị kết nối ngân hàng – doanh nghiệp. Phối hợp với các cơ quan địa phương, các Hiệp hội, Tập đoàn có các dự án lớn đối thoại trực tiếp để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, chỉ đạo tổ chức tín dụng chủ động tiếp cận thông tin, xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở thẩm định hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng và khả năng cân đối nguồn vốn theo quy định…

Bài: TS.Nguyễn Minh Phong

Tài liệu tham khảo:

1/. Công điện số 18/CĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2024 về điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024;

2/. Công điện số 32/CĐ-TTg ngày 5/4/2024 gửi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024,

3/. https://baochinhphu.vn/thu-tuong-yeu-cau-tang-cuong-cac-giai-phap-dieu-hanh-tang-truong-tin-dung-nam-2024-102240405182727614.htm;

4/. https://dangcongsan.vn/kinh-te/tien-gui-tang-nhung-doanh-nghiep-van-kho-tiep-can-nguon-von-661262.html;

5/. https://vneconomy.vn/chu-tich-vinatex-keu-lai-vay-van-cao-kien-nghi-chinh-phu-cuu-doanh-nghiep-soi.htm

6/. https://soha.vn/tong-tai-san-cac-tctd-lan-dau-vuot-moc-20-trieu-ty-agribank-bidv-vietinbank-va-vietcombank-chiem-bao-nhieu-198240214112159388.htm;

7/. https://vneconomy.vn/canh-bao-no-xau-noi-bang-toan-he-thong-la-4-55-va-ty-le-tin-dung-gdp-khoang-133.htm


Các tin khác