Điểm nhấn kinh tế năm 2025
Mức tăng trưởng GDP cao nhất châu Á năm 2025:
Mức tăng trưởng GDP cao nhất châu Á năm 2025 là đánh giá chung của nhiều dự báo quốc tế về kinh tế Việt Nam: Theo Báo cáo Cập nhật Kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 7/10/2025, Việt Nam dẫn đầu khu vực với mức tăng trưởng 6,6% (giá thị trường cố định), tiếp theo là Mông Cổ (5,9%) và Philippines (5,3%). Trung Quốc, Campuchia và Indonesia dự kiến đều tăng trưởng ở mức 4,8%, trong khi các quốc đảo Thái Bình Dương dự kiến tăng 2,7% và Thái Lan 2,0%. Lạm phát dự kiến cả năm của Việt Nam là 3,8%.
Trước đó, nhiều dự báo khác của nước ngoài cũng khẳng định mức tăng trưởng ấn tượng của Việt Nam; cụ thể: Standard Chartered đã nâng dự báo GDP năm 2025 lên 7,5%, năm 2026 lên 7,2%; lạm phát 3,4% (2025) và 3,7% (2026). HSBC nhấn mạnh năm 2025 Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ASEAN, gần sát mục tiêu trên 8% và lạm phát là 3,3% năm 2025; mức tăng tương ứng năm 2026 là 6,7% và 3,5%. Còn ADB và UOB dự báo tăng trưởng của Việt Nam là 6,7% và 7,5%.
Theo Cục Thống kê, GDP trong 3 quý vừa qua tăng 7,85%, với quý sau cao hơn quý trước và tăng đều các khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (tăng 3,83%), công nghiệp và xây dựng (tăng 8,69%), dịch vụ (tăng 8,49%).
Đặc biệt, tính chung mười tháng năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,3%) và mức tăng được ghi nhận ở tất cả 34 địa phương.
Quy mô nền kinh tế năm 2025 ước tăng lên 510 tỷ USD (so với 346 tỷ USD năm 2020), xếp vị trí 32 thế giới (tăng 5 bậc so 2020); GDP bình quân đầu người ước đạt khoảng 5.000 USD, gấp 1,4 lần năm 2020, vào nhóm thu nhập trung bình cao.
Quy mô kinh tế của Việt Nam đã tăng trưởng gần 106 lần, từ 4,5 tỷ USD vào năm 1986 lên 476,3 tỷ USD ở năm 2024. GDP bình quân đầu người tăng từ 74 USD lên 4.700 USD, gấp hơn 63 lần.Việt Nam cũng đã chính thức ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1987-2024 của Việt Nam đạt khoảng 6,67%/năm, thuộc nhóm cao nhất khu vực và thế giới đồng thời đưa Việt Nam trở thành quốc gia dẫn đầu tăng trưởng trong nhóm ASEAN-6.
Tính chung giai đoạn 2021–2025, Việt Nam đã đạt và vượt 22/26 chỉ tiêu chủ yếu, đặc biệt vượt toàn bộ các chỉ tiêu về xã hội và an sinh xã hội. Năm 2025, GDP dự kiến tăng trên 8% (bình quân giai đoạn 2021 – 2025 tăng 6,3%, cao hơn mức tăng 6,2% của nhiệm kỳ trước).
Duy trì các động lực tăng trưởng, nhất là xuất khẩu và đầu tư
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng ước đạt 5.772,9 nghìn tỷ đồng, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,0% (cùng kỳ năm 2024 tăng 4,8%). Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 762,44 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 16,2%; nhập khẩu tăng 18,6%. Cán cân thương mại hàng hóa
xuất siêu 19,56 tỷ USD. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 126,2 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 150,9 tỷ USD. Số lượng cảnh báo từ EU đối với nông sản xuất khẩu của Việt Nam giảm khoảng 50% so với cùng kỳ năm trước, phản ánh nỗ lực cải thiện chất lượng và tuân thủ quy định của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia có ít sản phẩm bị kiểm soát biên giới, chỉ còn 4 sản phẩm nằm trong danh sách kiểm tra gồm: sầu riêng (tần suất kiểm tra 20%); đậu bắp và ớt chuông (50% kèm chứng thư); thanh long (30%).
Giải ngân vốn đầu tư công từ đầu năm đến hết ngày 23/10 là 464.828 tỷ đồng, bằng 51,7% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Việc đẩy nhanh giải ngân không chỉ giúp thúc đẩy xây dựng, mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa cho doanh nghiệp sản xuất – vật liệu – logistics, góp phần cải thiện chuỗi giá trị và tăng năng suất sử dụng vốn.
Chính phủ đã chủ động điều hành bằng các giải pháp: miễn giảm, gia hạn thuế, phí cho doanh nghiệp; ưu tiên thanh khoản ngân hàng; mở rộng tín dụng cho sản xuất và doanh nghiệp vừa và nhỏ; đồng thời kích cầu tiêu dùng nội địa để giảm phụ thuộc vào xuất khẩu. Tổng tín dụng toàn nền kinh tế đến cuối quý III/2025 đã tăng khoảng 13,37% so với cuối năm trước, trước nhu cầu vốn cho sản xuất và đầu tư tăng cao.
Lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn của nền kinh tế và an sinh xã hội được bảo đảm, môi trường đầu tư tiếp tục cải thiện.
Theo Cục Thống kê, bình quân CPI 10 tháng tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,20%. Chỉ số giá vàng bình quân tăng 44,02% và Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân tăng 3,98% so với cùng kỳ năm trước.
Đặc biệt, tổng thu NSNN đạt 2.182,7 nghìn tỷ đồng, bằng 111% dự toán năm và tăng 30,8%; trong khi tổng chi NSNN lũy kế mười tháng đạt 1.835,7 nghìn tỷ đồng, bằng 71,2% dự toán năm và tăng 32,1% so với cùng kỳ năm trước (tổng thu NSNN 5 năm 2021-2025 ước đạt 9,6 triệu tỷ đồng, gấp 1,36 lần nhiệm kỳ trước, vượt xa mục tiêu 8,3 triệu tỷ đồng). Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2025 của Việt Nam xếp hạng 44/139 quốc gia, vùng lãnh thổ. Hạ tầng số phát triển mạnh mẽ, rộng khắp… Nhiều dự án tồn đọng, kéo dài nhiều năm được xử lý quyết liệt, đạt kết quả tích cực, góp phần giải phóng nguồn lực cho phát triển. Đời sống của nhân dân được nâng lên. 17% tổng chi NSNN giai đoạn 2021-2025 (tức khoảng 1,1 triệu tỷ đồng) là cho an sinh xã hội.
Chính phủ sau khi sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy gồm 14 bộ, 3 cơ quan ngang bộ (giảm 5 bộ, cơ quan ngang bộ, 3 cơ quan thuộc Chính phủ. Biên chế tại các bộ, ngành giảm khoảng 22.000 người (đạt khoảng 20%). Biên chế khối hành chính Nhà nước giảm 145.000 người; chi thường xuyên giảm 39.000 tỷ đồng/năm. Tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
Về tổng thể, năm 2025, Việt Nam đã nỗ lực vượt bậc, đạt kết quả toàn diện, ấn tượng trên hầu hết các lĩnh vực, khẳng định sức chống chịu, khả năng thích ứng linh hoạt và hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô. Việt Nam đang đi đúng hướng với lạm phát được kiểm soát chặt chẽ; Đầu tư công và xuất khẩu là hai động lực tăng trưởng then chốt.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn không ít hạn chế về năng lực điều hành ổn định kinh tế vĩ mô và hiệu quả khai thác nguồn lực từ con người, thiên nhiên, văn hóa và bảo vệ môi trường; phát triển và quản lý thị trường bất động sản, vàng, trái phiếu, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao. Tín dụng bất động sản tới cuối tháng 8/2025 tăng gần 19,7%, trong khi vốn cho sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn và ngành xây dựng có tỷ lệ nợ xấu ở mức 11,33%; thị trường vàng diễn biến phức tạp, làm hạn chế khả năng huy động vốn trung và dài hạn. Tiến độ giải ngân có thể bị ảnh hưởng bởi thủ tục hành chính, vốn ODA chậm; thị trường xuất khẩu có thể gặp khó nếu kinh tế thế giới đột ngột suy giảm; chi phí đầu vào – từ nguyên liệu, logistics – tiếp tục tăng, gây áp lực lên doanh nghiệp và việc “kích cầu” tiêu dùng nội địa cuối năm phụ thuộc nhiều vào thu nhập và tâm lý người dân.
Tình hình an ninh trật tự tại một số địa bàn, tội phạm an ninh mạng, công nghệ cao còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp…
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cả năm 2025 trên 8,4%, Chính phủ yêu cầu tăng tốc giải ngân đầu tư, đẩy vốn nhanh vào sản xuất – kinh doanh và thị trường nội địa; triển khai các gói hỗ trợ doanh nghiệp, mở rộng thị trường mới ở Trung Đông, Nam Á và châu Phi; nâng cao quản trị nợ xấu, bản lĩnh vượt khó và khát vọng phát triển bền vững.

Năm 2026 – mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam tiếp tục chịu nhiều sức ép
Theo dự báo của WB công bố tháng 10/2025, tăng trưởng thực tế GDP của Việt Nam theo giá cố định sẽ chậm lại còn 6,1% năm 2026, sau đó phục hồi lên 6,5% năm 2027; Lạm phát giảm dần còn 3,7% năm 2026 và 3,5% năm 2027; Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng 8,7% (nhập khẩu tăng 10%) vào năm 2026 và 8,9% (nhập khẩu tăng 9,6%) vào năm 2027 nhờ việc thương mại toàn cầu hồi phục và Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn dưới vai trò là một trung tâm công nghiệp cạnh tranh trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tỷ lệ nghèo theo chuẩn thu nhập trung bình thấp (4,2 USD/ngày, PPP 2021) dự kiến là 3,4% năm 2026 và chỉ còn 3,2% vào năm 2027.
Quốc hội và Chính phủ đã xác định mục tiêu năm 2026 là ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; ổn định tổ chức bộ máy, xây dựng nền hành chính hiện đại, thông minh, tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. GDP phấn đấu đạt 10% trở lên; GDP bình quân đầu người đạt 5.400-5.500 USD; CPI bình quân tăng khoảng 4,5%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 8%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm khoảng 1-1,5%; tăng thu NSNN ít nhất 10%; tăng chi đầu tư phát triển lên 40%; cắt ngay từ khi phân bổ ngân sách 5% chi đầu tư (cho dự án đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng) và 10% chi thường xuyên (cho an sinh xã hội). Quản lý hiệu quả thị trường vàng, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản;
Năm 2026, mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam tiếp tục chịu nhiều sức ép từ xuất khẩu, tiêu dùng và đầu tư, cũng như chất lượng tăng trưởng; một số mặt hàng thiết yếu tăng cao, trực tiếp tác động đến đời sống người dân, đặc biệt nhóm thu nhập thấp. Việc điều hành tỷ giá gặp nhiều thách thức, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phục hồi, thị trường vàng diễn biến phức tạp, làm hạn chế khả năng huy động vốn trung và dài hạn.
Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến 30/9, tín dụng toàn hệ thống tăng 13,4% so với đầu năm và huy động vốn chỉ tăng 9,7%. Trong cả năm 2025, chính sách tiền tệ tiếp tục duy trì hướng nới lỏng, giúp mặt bằng lãi suất tương đối ổn định. Tuy vậy, do nhu cầu tín dụng tăng trở lại và lãi suất huy động đang nhích lên khiến các ngân hàng sẽ tăng dần lãi suất cho vay để duy trì lợi nhuận trong năm 2026.
WB cũng cảnh báo Việt Nam về triển vọng dòng vốn FDI và thặng dư thương mại năm 2026 có thể giảm sút; Tăng trưởng tín dụng nhanh có nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đòi hỏi củng cố sức chống chịu của hệ thống ngân hàng bằng cách siết chặt giám sát, tăng cường thanh khoản và dự trữ vốn… Chính phủ cần tiếp tục tăng chính sách tài khóa hỗ trợ tăng trưởng trung hạn và củng cố khả năng chống chịu, do dư địa chính sách tiền tệ hạn chế bởi chênh lệch lãi suất và áp lực tỷ giá…
Thực tiễn đòi hỏi Việt Nam cần tiếp tục kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững các cân đối lớn; điều hành linh hoạt, chủ động, thận trọng trong chính sách tài khóa, tiền tệ; quản lý hiệu quả thị trường vàng; củng cố năng lực nội sinh và sức chống chịu của nền kinh tế, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng trong nước; ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn và mới nổi; thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ, năng lượng sạch, xanh, nguyên tử, bán dẫn, không gian vũ trụ, lượng tử…; phát triển thực chất các vùng động lực; xây dựng, sớm đưa vào vận hành, phát huy hiệu quả Trung tâm tài chính quốc tế tại TPHCM, Đà Nẵng và các khu thương mại tự do thế hệ mới tại một số địa phương.
Đặc biệt, cần quyết liệt tháo gỡ vướng mắc về thể chế, pháp luật, nhất là trong đầu tư, kinh doanh để giải phóng sức sản xuất, huy động nguồn lực cho phát triển; kịp thời tháo gỡ vướng mắc, chồng chéo trong hoạt động của bộ máy, nhất là ở cấp cơ sở, tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
Bài viết của TS. Nguyễn Minh Phong đăng tải trên Đặc san Dệt May và Thời trang số tháng 11/2025. Chi tiết tại đây!






