Để tăng trưởng xanh gặp năng suất
Yêu cầu ngày càng cao của thị trường xuất khẩu về sản xuất xanh và trách nhiệm xã hội đang đặt ra vấn đề cần phải giải quyết của ngành Dệt May Việt Nam hiện nay. PGS. TS. Nông Ngọc Duy, Viện Nghiên cứu quốc gia của Úc (CSIRO, Trường Đại học Griffith cho rằng, ngành Dệt May Việt Nam đang có 5 xu hướng lớn, đó là: Tính bền vững và thời trang tuần hoàn; Số hóa Công nghiệp 4.0; Người mua và chuỗi cung ứng Lao động chất lượng cao; Vật liệu tiên tiến; Biến động thương mại địa chính trị. Xoay quanh các nội dung này, Dệt May và Thời trang Việt Nam đã có cuộc trao đổi với PGS. TS. Nông Ngọc Duy.
PGS. TS. Nông Ngọc Duy, Viện Nghiên cứu quốc gia của Úc
* Xin PGS cho biết cụ thể hơn về 5 xu hướng lớn của ngành Dệt May Việt Nam?
Năm xu hướng đó là:
Tập trung vào tính bền vững và thời trang tuần hoàn, tăng cường trách nhiệm xã hội, với yêu cầu về chứng nhận ESG ngày càng cao từ EU, Mỹ và Nhật Bản, cùng với áp lực đạt được mục tiêu không phát thải carbon.
Số hóa và Công nghiệp 4.0 đang đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi ngành dệt may, với tự động hóa giúp tăng năng suất và cải thiện hiệu quả hoạt động.
Chuyển đổi thương mại địa chính trị tạo ra cơ hội tiếp cận thị trường Trung Quốc, khu vực châu Á trở nên cạnh tranh trong bối cảnh bất ổn chính trị.
Đổi mới vật liệu với xu hướng sử dụng vật liệu tái chế, tự nhiên, hữu cơ và bền vững. Nhu cầu về vật liệu bền vững đang ngày càng tăng. Thị trường vải bền vững dự kiến sẽ tăng trưởng đáng kể, từ 32,74 tỷ USD vào năm 2024 lên 74,8 tỷ USD vào năm 2032 (Market Research Future, 2024).
Mối quan hệ giữa người mua chuyên nghiệp và tùy chỉnh hàng loạt đang thay đổi, tập trung vào việc đồng sáng tạo giá trị và tạo ra mối quan hệ hợp tác sâu sắc hơn với các bên liên quan. Tăng cường hợp tác và liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa các khâu trong chuỗi cung ứng.
Xu hướng cạnh tranh để thu hút và đào tạo lao động có kỹ năng đáp ứng nhu cầu số hóa và tự động hóa ngày càng cao.
*Để có sự phát triển bền vững, đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP thực, theo nghiên cứu của PGS, ngành DMVN cần tập trung vào việc cải thiện năng suất lao động và hiệu quả chuỗi cung ứng. Xin PGS cho biết cụ thể hơn những yêu cầu đối với doanh nghiệp (DN) dệt may để cải thiện được năng suất lao động và hiệu quả chuỗi cung ứng trong điều kiện nền kinh tế, thị trường toàn cầu ngày càng có nhiều biến động khó lường?
Việc áp dụng những công nghệ tiên tiến có thể tăng năng suất sản xuất lên đến 55% và biên lợi nhuận lên đến 15% (Majumdar, Garg và Jain, 2021). Thị trường toàn cầu về tự động hóa trong ngành dệt may đang có sự tăng trưởng đáng kể, với dự báo sẽ tăng thêm 775,92 triệu USD vào năm 2028, với CAGR là 3,75% (Technavio, 2023). Trong khi tổng số lượng lao động cần thiết có thể duy trì ổn định hoặc thậm chí giảm do sự tiến bộ của công nghệ, thì nhu cầu về lao động tay nghề cao dự kiến sẽ tăng lên đáng kể.
Để tăng năng suất lao động và hiệu quả chuỗi cung ứng trong bối cảnh biến động toàn cầu, các DN dệt may Việt Nam cần đầu tư vào công nghệ tiên tiến và tự động hóa, tăng cường quản lý chuỗi cung ứng qua các hệ thống kỹ thuật số và phân tích dữ liệu để dự báo nhu cầu và tối ưu hóa sản xuất. Đồng thời, đào tạo kỹ năng cho lao động, nhất là trong các quy trình công nghệ và kỹ thuật số, là yếu tố quan trọng để tăng cường năng suất và khả năng linh hoạt của chuỗi cung ứng.
*Tăng trưởng năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) là yếu tố quan trọng duy nhất giúp duy trì sự phát triển dài hạn của ngành dệt và may mặc. Vinatex cũng nhận định đây là chìa khóa để cạnh tranh và phát triển. Theo PGS, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần làm để cải thiện TFP trong hoạt động SXKD?
Để cải thiện TFP trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các DN dệt may Việt Nam cần chú trọng áp dụng các phương pháp sản xuất tinh gọn như Lean và Six Sigma, đầu tư vào các hệ thống quản lý chất lượng, và phát triển quy trình kỹ thuật số để tăng hiệu quả và giảm lãng phí. Đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ tiên tiến, cùng với nâng cao năng lực quản lý và kỹ năng công nhân qua đào tạo chuyên sâu, cũng là yếu tố quan trọng.
*Việc đào tạo và phát triển bộ máy quản lý là yếu tố then chốt để có khả năng thích nghi với việc xây dựng và vận hành các giải pháp mới, trong đó có TFP. Vậy đâu là những yếu tố cần tập trung trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới, thưa PGS?
Các yếu tố cần tập trung trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới bao gồm phát triển kỹ năng kỹ thuật số, hiểu biết về công nghệ xanh, và kỹ năng quản lý chuỗi cung ứng. Đào tạo công nhân về các hệ thống tự động hóa và quản lý kỹ thuật số sẽ giúp tăng khả năng thích nghi với các giải pháp mới, bao gồm cả TFP.
*Các chỉ số tăng trưởng xanh mang lại lợi ích về môi trường, đặc biệt là ở thị trường phương Tây, nhưng có ít hiệu quả về chi phí trong quy trình sản xuất. Các DN dệt may Việt Nam cần hài hòa yêu cầu xanh hóa, tuần hoàn với hiệu quả kinh tế thế nào, thưa PGS?
Để hài hòa yêu cầu xanh hóa với hiệu quả kinh tế, các DN dệt may Việt Nam có thể đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng và tái sử dụng nước, đồng thời triển khai các hệ thống quản lý chất lượng môi trường để giảm chi phí liên quan đến xử lý nước thải và năng lượng. Áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn như sử dụng nguyên liệu tái chế và tái chế sản phẩm cũng là giải pháp tiềm năng.
Về phía các nhà hoạch định chính sách cần tạo điều kiện tiếp cận tài chính xanh với các ưu đãi và khung pháp lý cho doanh nghiệp. Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) để nội địa hóa các công nghệ xanh. Tăng cường giáo dục STEM và đào tạo nghề. Cải thiện khả năng tiếp cận thị trường qua các hiệp định thương mại và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế.
Dự báo, Trung Quốc và Nhật Bản sẽ là hai thị trường lớn nhất xuất khẩu hàng may mặc và dệt cho Việt Nam trong dài hạn. Theo đó, DN dệt may Việt Nam cần nâng cao năng lực sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm để phù hợp với nhu cầu khách hàng của từng quốc gia, và tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng và yêu cầu môi trường ngày càng cao. Đầu tư vào công nghệ tự động hóa và kỹ thuật số cũng giúp tối ưu hóa chuỗi cung ứng, đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu từ hai thị trường này
*Trân trọng cảm ơn PGS!